Không, tôi không nói Đức Phật bị loãng xương; tôi chỉ muốn nhân dịp
Lễ Vu Lan báo hiếu để nói về kiến thức của Phật về xương, về người mẹ và
căn bệnh âm thầm có tên là loãng xương. Loãng xương là vấn đề
đáng quan tâm vì bệnh liên quan đến nhiều hệ quả, kể cả tử vong. Ít
người biết rằng nguy cơ gãy cổ xương đùi bằng hoặc cao hơn nguy cơ ung
thư vú, và nguy cơ tử vong vì gãy cổ xương đùi tương đương với nguy cơ
tử vong ung thư vú.
Lần đầu tiên tôi tiếp cận kiến thức của Phật về xương hình như là hơn
15 năm trước. Dạo đó, tôi chở bà nhạc đi chùa, và cũng tham gia với các
Phật tử khác tụng Kinh Báo hiếu. Có lẽ hơi khác với các Phật tử
đang thả hồn vào lời kinh, tôi chú ý đến đoạn Đức Phật giảng về xương,
mà theo kiến thức của y học hiện đại ngày nay là chính xác.
Đức Phật lí giải về xương
Nhưng trước khi bàn về kiến thức về xương của Đức Phật, có lẽ tôi
phải nói qua một chút về nội dung của Kinh Báo hiếu. Trong một chuyến đi
hoằng pháp của Đức Phật, Ngài và đoàn tuỳ tùng đi ngang qua một đống
xương khô cao như núi. Đức Phật quì xuống lạy đống xương. Vị tôn giả tên
là A Nan ngạc nhiên hỏi sao Phật làm như thế, và Ngài giải thích rằng
Ngài lạy ông, bà, cha, mẹ, hay nói chung là những bậc tiền nhân. Đức
Phật bèn bảo A Nan nên sắp xếp đống xương cho thứ tự, nam nữ để riêng
ra, chứ hỗn độn như thế thì rất không phải. Tôn giả A Nan hỏi làm sao
biết xương nào là của nam giới, và xương nào là của nữ giới. Đức Phật
giải thích rằng việc phân biệt cũng không khó vì trọng lượng xương của
nam cao hơn nữ. Ngài còn suy luận rằng sở dĩ trọng lượng xương của nữ
thấp hơn nam là vì người nữ phải sinh nặng đẻ đau, mất máu, và mất sữa
cho con bú. Nguyên văn những câu kinh liên quan là như sau:
Phật mới bảo: A Nan nên biết
Xương nữ nam phân biệt rõ ràng
Ðàn ông xương trắng nặng hoằng
Ðàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.
Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?
Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra
Sanh con ba đấu huyết ra
Tám hộc, bốn đấu sữa hòa nuôi con.
Nên nhớ rằng những suy luận này (chẳng biết tôi dùng chữ “suy luận”
có đúng không nữa) đã được phát biểu từ hơn 2500 năm trước. Ở thời điểm
đó thì chắc chắn không có thiết bị y khoa để đo lường xương mà so sánh
nặng hay nhẹ. Vậy chúng ta thử “kiểm định” xem những gì Đức Phật suy
luận có đúng với thực tế hay không.
Mật độ xương
Ngày nay, với phương tiện vật lí (như máy hấp thu hai tia năng lượng
-- dual energy X ray absorptiometry hay DXA), chúng ta có thể đo lường
được lượng chất khoáng trong xương (bone mineral content). Lượng này
thường được tính bằng gram. Nhưng để so sánh hai nhóm một cách khách
quan, chúng ta cần phải tính lượng chất khoáng trên diện tích xương
(hoặc thể tích xương). Diện tích vùng xương được đo thường được mô tả
bằng centimeter vuông (cm2). Lấy lượng chất khoáng trong
xương chia cho diện tích xương, chúng ta có chỉ số có tên là “bone
mineral density” (mật độ chất khoáng trong xương, nhưng quen gọi tắt là mật độ xương) với đơn vị đo lường là gram/cm2. Những xương quan trọng thường là xương cột sống và xương đùi, vì đây là những nơi xương hay bị gãy.
Gần đây, chúng tôi đã đo mật độ xương trên 1200 nam và nữ ở Thành phố
Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy nữ có mật độ xương thấp hơn nam. Nhưng sự
khác biệt còn tuỳ thuộc vào độ tuổi. Ở độ tuổi 20-30, tính trung bình,
mật độ xương đùi ở nữ giới thấp hơn nam giới khoảng 5%. Nhưng sau độ
tuổi 60, mật độ xương ở nữ giới thấp hơn nam đến 17%. So với độ tuổi
20-30, mật độ xương ở nữ tuổi 60 trở lên mất gần 40%. Như vậy, bằng tuệ
giác của mình, Đức Phật đã suy đoán đúng rằng nữ có trọng lượng xương
thấp hơn nam.
Vai trò của estrogen
Tại sao ở độ tuổi 60 trở lên nữ có mật độ xương thấp hơn nam? Có
nhiều nguyên nhân cho sự suy giảm mật độ xương ở nữ. Một trong những lí
giải được nhiều người chấp nhận nhất và có chứng cứ khoa học nhất là do
suy giảm hormone giới tính estrogen.
Estrogen là một hormone đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều
tiết qui trình chuyển hoá xương. Qui trình này rất phức tạp, nhưng với
sự “tham gia” của hai nhóm tế bào tạo xương và huỷ xương. Khi các tế bào
tạo xương hoạt động tích cực hơn các tế bào huỷ xương, chất khoáng
trong xương được tạo ra; ngược lại, khi các tế bào hủy xương hoạt động
tích cực hơn tế bào tạo xương thì chất khoáng trong xương bị suy giảm.
Nồng độ estrogen trong cơ thể có chức năng ức chế các tế bào huỷ xương
bằng cách ngăn chận một enzyme có tên là caspase-3. Do đó, ở nữ giới,
người có nồng độ estrogen cao thường thường là những người có mật độ
xương tốt.
Có 3 loại estrogen chính là estradiol, estrone, và estriol. Nhưng
estradiol có ý nghĩa lâm sàng hơn hai loại kia. Ở nữ, estradiol chủ yếu
được sản sinh từ buồng trứng; ở nam, estradiol được chuyển hóa từ
testosterone (chú ý rằng testosterone là hormone nam tính). Do đó, nồng
độ estrogen có thể đo từ máu, và từ kết quả xét nghiệm có thể biết được
một cá nhân thiếu hay đủ estrogen.
Nồng độ estradiol trong máu ở nam và nữ có xu hướng biến chuyển rất
khác nhau. Ở nam, nồng độ estradiol chỉ dao động trong khoảng 20 pg/mL,
và hầu như không suy giảm theo độ tuổi. Tuy nhiên, ở nữ Việt Nam, nồng
độ estradiol trong độ tuổi xuân thì là khoảng 90 pg/mL, nhưng đến tuổi
sau mãn kinh (tức sau 50) thì giảm xuống chỉ còn 12 pg/mL, đến tuổi 60
trở lên, chỉ còn 7.5 pg/mL.
Sự suy giảm estradiol ở nữ giới sau thời kì mãn kinh (hay sau độ tuổi
sinh sản) cũng có nghĩa là sự trỗi dậy của các tế bào huỷ xương, và dẫn
đến sự suy giảm mật độ xương ở nữ giới.
Ngoài estrogen ra, còn có vài yếu tố khác liên quan đến quá trình
sinh sản cũng làm cho xương của phụ nữ suy giảm. Sự suy giảm xương của
người mẹ xảy ra ngay trong thời gian mang thai. Trong thời gian này,
nhất là 3 tháng đầu mang thai, bào thai cần calcium để phát triển bộ
xương, và nguồn calcium phải đến từ người mẹ. Mặc dù trong thời gian
mang thai, nồng độ estradiol tăng cao, nhưng mật độ xương của người mẹ
vẫn bị suy giảm, một phần là do chuyển calcium từ mẹ sang con.
Trong thời gian bà mẹ cho con bú (sữa mẹ) thì mật độ xương cũng suy
giảm. Một số nghiên cứu trên những bà mẹ ở nước ngoài cho thấy trong
thời kì này, mật độ xương của mẹ giảm khoảng 3 đến 9%, đặc biệt là xương
cột sống và xương đùi. Cho con bú sữa mẹ cũng có nghĩa là chia sẻ
calcium (một chất khoáng quan trọng trong xương) cho đứa con. Tuy nhiên,
sau đó thì mật độ xương có vẻ “khôi phục” bình thường lại. Do đó,
thường thường (không phải tất cả) những bà mẹ có nhiều con cũng là những
người có mật độ xương suy giảm.
Điểm qua những sự thật trên, chúng ta thấy nữ giới có mật độ xương
thấp (hay nói theo ngôn ngữ của Phật là trọng lượng xương thấp) hơn nam
là do 3 yếu tố chính: suy giảm estradiol trong máu, chuyển calcium cho
bào thai trong lúc mang thai, và chuyển calcium cho con sau khi sinh
con. Như vậy, suy luận của Đức Phật về sự mất máu và sinh sản dẫn đến
suy giảm trọng lượng xương ở nữ cũng hoàn toàn đúng.
Hệ quả giảm mật độ xương
Suy giảm mật độ xương có ý nghĩa quan trọng đến sức khoẻ của xương.
Mật độ xương càng thấp, nguy cơ bị gãy xương càng cao. Do đó, mật độ
xương đo bằng máy DXA được dùng để chẩn đoán loãng xương. Mật độ xương ở
những người trên 50 tuổi được so sánh với mật độ xương lúc 20-30 tuổi,
và thể hiện bằng một chỉ số có tên là “Chỉ số T” (thuật ngữ tiếng Anh là
T-score). Trong thực tế, chỉ số T được tính toán bằng cách lấy mật độ
xương của một cá nhân, trừ cho mật độ xương lúc 20-30 tuổi, và chia kết
quả cho độ lệch chuẩn. Khi chỉ số T của một cá nhân (trên 50 tuổi) bằng
hoặc thấp hơn -2.5 thì được chẩn đoán là “loãng xương”.
Hình chụp cấu trúc của xương bình thường
(trái) và xương bị "loãng" (phải). Osteoporosis là chữ ghép từ osteos
(tiếng Hi Lạp có nghĩa là xương) và poros (có nghĩa là loãng).
Dùng tiêu chuẩn chẩn đoán trên, chúng tôi có thể đánh giá qui mô
loãng xương ở Việt Nam. Theo nghiên cứu của chúng tôi ở TPHCM và Hà Nội,
ở những người trên 50 tuổi, cứ 10 người nữ thì có khoảng 3 người bị
loãng xương; ở nam, cứ 10 người thì có 1 người bị loãng xương. Dùng số
liệu dân số của Việt Nam năm 2010, chúng tôi ước tính rằng hiện nay có
khoảng 2 triệu nữ và nửa triệu nam trên 50 tuổi đang trong tình trạng
loãng xương.
Những người loãng xương có nguy cơ bị gãy xương tăng gấp 2-3 lần so
với người có mật độ xương bình thường. Gãy xương, nhất là gãy cổ xương
đùi, là một biến cố quan trọng trong một đời người. Bị gãy xương một lần
làm tăng nguy cơ gãy xương lần thứ hai, và nguy cơ tử vong. Khoảng
15-20% bệnh nhân gãy cổ xương đùi tử vong trong vòng 12 tháng. Ở nữ,
nguy cơ gãy cổ xương đùi tương đương với nguy cơ ung thư vú. Rất ít
người biết rằng nguy cơ tử vong vì gãy cổ xương đùi cũng bằng hoặc cao
hơn nguy cơ tử vong vì ung thư vú. Hiện nay, có một số thuốc có thể sử
dụng để điều trị loãng xương, giảm nguy cơ gãy xương, và một vài thuốc
còn giảm nguy cơ tử vong vì gãy xương.
Nói tóm lại, loãng xương ở nữ giới cao hơn nam giới, do mật độ xương ở
nữ thấp hơn nam. Loãng xương ở nữ giới là một hệ quả của suy giảm
estrogen khi về già, chuyển giao calcium cho người con trong khi mang
thai và sau khi sinh con. Những khía cạnh này đã được Đức Phật đề cập
đến hơn 2500 năm trước! Nhân ngày Lễ Vu Lan, đọc lại những lời Kinh Báo
hiếu để thấy sự thông tuệ của Đức Phật, và để nhắc nhở chúng ta về sự
mang nặng đẻ đau và hi sinh của những bà mẹ. Nhìn nhận những sự thật này
cũng là một cách để chúng ta hiểu rằng chính chúng ta – những người con
– mang hình hài của mẹ là một phần của nguyên nhân dẫn đến loãng xương
cho mẹ.
Nguồn nguyenvantuan.net
Chú thích:
Bài đã đănng trên Tuổi trẻ cuối tuần (tuần này).
Số liệu trong bài này có thể tham khảo từ 2 công trình chính sau đây:
(1) Hồ Phạm Thục Lan và đồng nghiệp, “Reference Ranges for Bone Mineral Density and Prevalence of Osteoporosis in Vietnamese Men and Women” công bố trên tập san BMC Musculoskeletal Disorders 2011.
(2) Nguyễn Thị Thanh Hương và đồng nghiệp, “Peak bone mineral density in Vietnamese women”, công bố trên tập san Archives of Osteoporosis 2009.