Năm 2012 sắp qua, theo truyền thống cuối năm, giới khoa
học thường tự nhìn lại những tiến bộ trong năm vừa qua. Trong lĩnh vực y
học, tiến bộ đáng quan tâm là nghiên cứu về xu hướng y khoa cá nhân
hóa.
Đánh giá thế nào là “tiến bộ” có khi tùy thuộc vào quan
điểm và tầm nhìn của một cá nhân, hay định hướng chiến lược của một
quốc gia. Bài viết này được thực hiện dưới cách nhìn của giáo sư Nguyễn
Văn Tuấn - Viện Nghiên cứu y khoa Garvan (Úc).
Xu hướng y khoa cá nhân hóa
Một trong những “huyền bí” của y khoa là sự khác biệt
về hiệu quả của thuốc giữa các cá nhân. Hai bệnh nhân có thể cùng tuổi,
cùng giới tính, có cùng các yếu tố lâm sàng, nhưng một bệnh nhân đáp ứng
thuốc rất tốt, bệnh nhân kia thì không đáp ứng thuốc, thậm chí bị biến
chứng.
Thực tế cho thấy đối với các bệnh không lây nhiễm, phần
lớn thuốc điều trị chỉ hiệu quả cho 50-60% bệnh nhân; phần còn lại
không hưởng được lợi ích gì từ thuốc (thậm chí là không cần dùng thuốc).
Một số khác bị những biến chứng, có thể không quan trọng, nhưng cũng có
khi đe dọa đến sự sống. Vấn đề đặt ra là tại sao có sự khác biệt như
thế, làm thế nào bác sĩ có thể nhận ra những bệnh nhân có khả năng hưởng
lợi từ thuốc và tránh biến chứng?
Nói cách khác, sự huyền bí của y khoa là đề tài của rất
nhiều nghiên cứu y học trong vòng 10 năm qua và mục tiêu tối hậu là cá
nhân hóa điều trị. Không chỉ cá nhân hóa điều trị, y học cá nhân hóa
(personalized medicine) còn hướng đến việc cá nhân hóa tiên lượng và
quản lý bệnh.
Định hướng y học cá nhân hóa xuất phát từ một nghịch
lý. Đáng lý ra y học quan tâm đến cá nhân, nhưng nghiên cứu y học thì
lại dựa trên một quần thể.
Thật vậy, để biết thuốc có hiệu quả hay không, các nhà
nghiên cứu phải thử nghiệm thuốc trên một nhóm bệnh nhân (hay đối tượng
bình thường), nhưng khi điều trị thì bác sĩ chỉ quan tâm đến một cá nhân
cụ thể.
Điều này dẫn đến một hệ quả có thể đoán được là một
thuốc có thể hiệu quả trong một nhóm bệnh nhân, nhưng có thể không đem
lại lợi ích cho một cá nhân! Y học cá nhân hóa có mục tiêu đi tìm bệnh
nhân nào hay cá nhân nào có thể hưởng lợi từ điều trị.
Để đạt được mục tiêu cá nhân hóa, chúng ta cần phải
biết yếu tố nào ảnh hưởng đến sự khác biệt về hiệu quả giữa cá nhân. Sự
khác biệt này thể hiện qua sự chuyển hóa của thuốc.
Sự chuyển hóa của thuốc lại phụ thuộc vào một số gen
liên quan đến enzymes trong “gia đình” P450 (tức CYP450). Enzyme có thể
hiểu như là con dao sinh học. Những enzyme này có thể làm cho thuốc
chuyển hóa nhanh hay chậm tùy thuộc vào biến thể của gen. Do đó, một số
cá nhân có thể không đáp ứng thuốc vì có biến thể gen bất lợi cho sự
chuyển hóa của thuốc.
Vai trò của gen
Dấu hiệu về ảnh hưởng của gen có thể thấy qua sự khác
biệt về hiệu quả của thuốc giữa các sắc dân. Chẳng hạn như các thuốc
trong nhóm beta-blockers (dùng để điều trị cao huyết áp) có hiệu quả rất
thấp ở bệnh nhân gốc châu Phi, nhưng lại có hiệu quả cao ở người da
trắng hay người gốc châu Âu.
Đối với việc điều trị bệnh hen, người da đen cần một
liều lượng thuốc cao hơn người da trắng để đạt đến một hiệu quả lâm sàng
tương đương. Trong một bài điểm báo gần đây trên tập san danh tiếng
Nature Genetics, hai tác giả Tate và Goldstein điểm qua 29 loại thuốc,
trong đó bốn loại thuốc có hiệu quả khác biệt rõ ràng giữa các nhóm
người dựa theo biến thể của gen, chín loại thuốc có bằng chứng khác biệt
về hiệu ứng nhưng chưa rõ ràng, 16 loại thuốc còn lại không có khác
biệt nào giữa các sắc dân.
Liên quan đến điều trị bệnh suy tim, một số nghiên cứu
mới đây cho thấy thuốc BiDiL (hóa hợp hai loại thuốc isosorbide và
dinitrate) khi dùng trong một quần thể chung không có hiệu quả gì đáng
kể, nhưng khi dùng ở người da đen hiệu quả rất cao.
Trong một nghiên cứu ở người da đen (vừa công bố trên
tập san y học danh tiếng New England Journal of Medicine), các nhà
nghiên cứu ghi nhận sau 18 tháng tỉ lệ tử vong vì chứng suy tim sung
huyết trong nhóm điều trị bằng BiDiL giảm đến 43% so với nhóm giả dược.
Dựa vào kết quả nghiên cứu đó, thuốc BiDiL được Cục
Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) phê chuẩn để điều trị chứng suy
tim ở người da đen. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử y học hiện đại,
một loại thuốc được sử dụng dựa vào màu da hay chủng tộc của bệnh nhân.
Những tiến bộ đáng kể
Trong vài năm gần đây, đặc biệt là năm 2012 vừa qua, y
học cá nhân hóa đã đạt được một số tiến bộ rất đáng khích lệ. Một trong
những ứng dụng của y học cá nhân hóa là trong lĩnh vực ung thư.
Khoảng 30% bệnh nhân ung thư vú có đặc điểm là protein
HER2 hoạt động quá “tích cực”, đối với những bệnh nhân này các phương
pháp điều trị phổ quát không hiệu quả, nhưng với kháng nguyên Herceptin
lại rất có hiệu quả. Từ đó, các nhà khoa học có thể phân tích protein
HER2 để nhận ra bệnh nhân và thuốc điều trị thích hợp hơn.
Cá nhân hóa điều trị cũng được ứng dụng cho ung thư
ruột già. Khoảng 40% bệnh nhân ung thư ruột già di căn không đáp ứng
những thuốc như Erbitux và Vectibix, vì các bướu bị đột biến từ gen có
tên là KRAS. Một số phác đồ điều trị đề nghị chỉ điều trị những bệnh
nhân với biến thể bình thường của gen KRAS mới dùng những thuốc trên. Do
vậy, xét nghiệm gen KRAS có thể sẽ trở thành một cách lựa chọn bệnh
nhân thích hợp cho một số thuốc.
Danh sách những tiến bộ trong y học cá nhân hóa còn
dài, sẽ nhiều hơn trong tương lai. Y học cá nhân hóa tiến bộ nhờ vào
những tiến bộ trong lĩnh vực công nghệ sinh học, khoa học thống kê và
khoa học máy tính. Những tiến bộ trong y học cá nhân hóa sẽ giúp giảm
ngân sách y tế, bởi số bệnh nhân cần thiết và thích hợp cho điều trị sẽ
ít hơn là điều trị đại trà.
Nguồn Tuổi trẻ Online